Có một vị Phật tử rất thuần thành, mỗi ngày đều hái hoa trong vườn nhà
mình mang đến chùa dâng cúng Phật. Một hôm khi cô đang mang hoa tươi
đến cúng Phật, tình cờ gặp thiền sư từ giảng đường đi ra.
Thiền sư hoan hỷ nói:
“Con mỗi ngày đều chí thành mang hoa hương đến cúng Phật như thế, y
theo lời ghi: Người nào thường dùng hoa hương cúng Phật, đời sau sẽ được
quả báo tướng mạo xinh đẹp”.
Cô Phật tử rất vui đáp:
“Đây là việc nên làm, con mỗi ngày khi đến chùa lễ Phật, tự cảm thấy
trong tâm mát mẻ, giống như đã tẩy sạch hết các lỗi lầm. Nhưng về đến nhà
thì tâm khởi lên buồn phiền, vì gia đình chúng con ở giữa phố thị ồn ào thì
làm sao giữ được tâm thuần trong sáng thanh tịnh được.”
Thiền sư hỏi:
“Con dâng hoa tươi cúng Phật, chắc là con có chút hiểu biết về hoa. Bây
giờ thầy hỏi con, làm thế nào để giữ gìn cho hoa thường được tươi đẹp.”
Phật tử đáp:
“Phương pháp giữ cho đóa hoa tươi đẹp là mỗi ngày phải thay nước và
cắt bỏ một phần dưới của thân hoa, vì phần dưới thân ngâm trong nước nên
dễ bị hư thối, khi hư thối thì không hút được chất dinh dưỡng, dẫn đến hoa
mau héo tàn.
Thiền sư nói:
“Việc giữ gìn tâm trong sáng thanh tịnh cũng như thế. Hoàn cảnh sinh
hoạt của chúng ta cũng giống như nước trong bình. Chúng ta chính là hoa,
chỉ có thường xuyên thanh lọc thân tâm thanh tịnh sửa đổi tập khí và không
ngừng sám hối, tự kiểm điểm, cải thiện tật xấu, khuyết điểm, mới có thể thu
nhập được nhiều hạnh phúc an vui.
Phật tử nghe xong, hoan hỷ lễ tạ, nói:
“Cảm ơn thầy đã chỉ dạy. Hy vọng sau này con có cơ hội sống gần thầy,
được làm người tu thiền sinh hoạt trong thiền viện của thầy, được thưởng
thức tiếng chuông trống sớm khuya, yên tĩnh đọc lời kinh tiếng kệ.”
Thiền sư nói:
“Con hít vào thở ra mà Tâm Không Chấp Mắc Chuyện Đời là đọc kinh.
Tim đập mạch máu động là tiếng chuông, tiếng trống. Thân thể là thiền viện.
Hai tai nghe tỉnh giác là Bồ-đề.
Nếu con làm được như thế thì ở đâu cũng được an vui, hà tất phải đợi
đến được sinh hoạt ở thiền viện!?
Tỉnh Thức
Month: January 2022
THẾ NÀO LÀ NGÃ MẠN?
Tể tướng Quách Tử Nghi đời nhà Đường là một chính khách lỗi lạc cũng
là một vị tướng tài ba. Sự thành công của ông trên cả hai phương diện chính
trị và quân sự khiến cho ông được cả nước ngưỡng mộ như một anh hùng
thời đại. Nhưng danh vọng, quyền lực, giàu sang và thành công đã không
xao lãng được lòng ưa thích và sùng mộ của vị tể tướng đối với Phật pháp.
Tự coi mình như là một Phật tử bình dị, khiêm tốn và nhiệt thành, ông
thường viếng vị Thiền sư ưu ái của mình để tham học.
Ông và vị Thiền sư dường như rất hợp nhau. Sự kiện ông giữ chức tể
tướng và địa vị xã hội cao thời xưa ở Trung quốc, dường như không có ảnh
hưởng gì đến sự kết giao của họ. Hiển nhiên không có dấu vết lễ phép đáng
kể nào về phía Thiền sư hay sự trịch thượng rởm nào về phần quan tể tướng
hiện diện trong mối quan hệ của họ, dường như đây là một quan hệ thuần
túy trong đạo giữa một bậc tôn sư và một đệ tử thuần thành.
Tuy nhiên, một hôm Quách Tử Nghi đến viếng Thiền sư như thường lệ
và hỏi một câu như vầy:
“Bạch hòa thượng, Phật giáo giải thích ngã mạn như thế nào?”
Thiền sư mặt bỗng biến xanh, bằng một phong thái đầy cao ngạo và khinh
khi, nói với quan tể tướng: “Này thằng ngu, ngươi nói cái gì?”
Sự khinh thị thách thức này đã xúc phạm đau đớn phạm tình cảm của vị
tể tướng đến độ mặt ông ta bắt đầu tỏ vẻ giận dữ.
Lúc ấy Thiền sư mỉm cười, nói: “Thưa ngài, đấy chính là ngã mạn.”
Trích “GÓP NHẶT CÁT ĐÁ”
THIỀN SƯ MUJU
Người dịch: ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG
HŨ GẠO
Bà Hai ngồi đó,bên mâm cơm chừng đã nguội hết thức ăn, lưng chén cơm
trước mặt sao nghe no ngang,toàn những món con trai và con dâu Bà thích.
Từ sáng sớm,Bà đã đi chợ, sơ chế sẵn để tủ lạnh, chuẩn bị cho bữa cơm chiều.
Bữa cơm gia đình trong ngày, Bà cũng thường xuyên một mình đối diện với
mâm cơm vì những cuộc đột xuất tiếp khách trong việc làm ăn của con. Căn
nhà trở nên rộng hơn, không một âm thanh…
Chan miếng canh vào chén cơm cho dễ nuốt, Bà dùng thìa múc từng
muỗng một cách thờ ơ, sự va chạm nhỏ cũng tạo nên tiếng vang rất rõ, vọng
lại từ nỗi cô đơn xế chiều. Nhìn thố cơm trắng còn đầy nguyên, Bà chợt nhớ
đến cái hũ gạo ngày xưa… Khi cái lon đong gạo chạm đáy, âm thanh sắc
nhọn vỡ ra, xoáy buốt nỗi nhọc nhằn, đè nặng trái tim Bà…
Bà ngồi trên chiếc xích đu trước hiên nhà trong ánh sáng nhạt từ phòng
khách hắt ra, gió đưa hương những khóm hoa hồng phảng phất êm đềm,
lắng dịu của đêm. Dõi tầm mắt xa xăm qua cánh cổng rào thưa, Bà có thể
nhìn thấy con đường tấp nập người và xe qua lại. Mọi người vội vã. Trước
đây, Bà cũng vậy, ra khỏi nhà khi mặt trời chưa mọc, trở về đường phố đã
lên đèn. Thỉnh thoảng có ngày nghỉ, Bà tìm cơ hội để chào hỏi hàng xóm.
Trong Bà như có ai đó đốt lửa, một tháng ba mươi ngày, một năm mười hai
tháng, như chiếc kim đồng hồ không ngừng nghỉ.
Đâu là sức mạnh?
Gần đến cuối đời, nhìn lại những đoạn đường đã qua, mỗi một bước chân
đi in dấu tình thương và các con chính là động lực. Nhìn con lớn lên từng
ngày, được cắp sách đến trường, cấp một rồi cấp hai, cấp ba, vô đại học. Bà
không còn biết đói, biết lạnh, cũng quên mất cảm giác thèm ăn món gì, chỉ
suy nghĩ nấu món ngon con thích, ăn no đủ để lớn.
Thời gian như chớp mắt. Mới đó , con Bà đã khôn lớn. Có thể yên tâm mà
hưởng phước tuổi già, không còn lo nghĩ. Bà đã sử dụng thời gian trong
ngày của mình với nhiều công việc, không muốn đối diện với khoảng trống.
Vậy nhưng cũng có lúc nằm thừ ra không biết làm gì, lắng nghe cơ thể đau
chỗ này, nhức chỗ kia và trong đầu vang lên những câu hỏi:
- Bà đã thật sự già rồi sao? Bà đã trở nên vô tích sự hồi nào thế? Sao lại
bạc nhược như thế này?
Cưới Vợ cho con trai, Bà đã một bước tròn tâm niệm. Có những lúc một
mình trong căn nhà vắng vẻ, ngồi trước di ảnh người chồng quá cố, lặng đi
với cảm giác trở về thật xa ngày Ông còn sống…
Nắm tay đi hết đoạn đường đời/ Nào ngờ sóng vỗ bão tơi bời/ Thuyền
nan một mảnh tay chèo ngược/ Thuận với vô thường đợi tới nơi.
Bà đã đợi được ngày này… Ngày mà sự an yên cho Bà cảm giác cuộc đời
đã lãng quên chính mình.
Trời trở gió thổi tung những chiếc lá rụng rơi đầy hàng hiên, lao xao lùa
về cuối góc thấp, nép vào đêm yên phận. Bà tựa đầu vào chiếc xích đu, khép
hờ đôi mắt, lội ngược dòng trong thế giới tĩnh mịch, trộn lẫn những suy nghĩ
mông lung, muốn tách ra, sắp xếp chúng lại ngày hiện tại. Bà muốn thêm
nắng, thêm gió, thêm vận động để ngày sống thêm ý nghĩa… Đời là một
chọn lựa, bước xuống hòa mình vào luân chuyển sự sống hay tự nhốt mình
trong bốn bức tường với một mặc định già nua, hết thời gian còn lại? Trong
Bà đã có quyết định…
Có tiếng chuông làm Bà giật mình trở về thực tại, bước ra nhìn qua ô nhỏ
thấy con về tới, vội mở rộng cửa. Chiếc xe hơi màu đen chạy thẳng vào nhà
rồi tắt máy. Bà bước vào phòng khách, bật cái tivi cho vui tai. Cùng lúc con
trai và con dâu bà lên tiếng: - Con chào mẹ.
Mặt Bà tươi tỉnh hẳn lên, liền hỏi: - Các con có ăn thêm gì không?
Tiếng con dâu trả lời: - Dạ không !
- Vậy các con tắm rửa rồi nghỉ ngơi cho khỏe.
Con trai quay qua nói với Vợ: - Em lên phòng tắm trước đi, anh chơi với mẹ chút.
Nói rồi nó sà xuống bên cạnh, trong chiếc ghế sopha dài gối đầu lên chân
Bà, dài giọng : - Mẹ… gãi đầu cho con…
Bà cười khẽ: - Có vợ rồi còn nhõng nhẽo.
Miệng nói thế nhưng Bà vẫn gãi đầu cho con trai như hồi còn nhỏ. Đầu
nhiều tóc, đen mun, ngày xưa bị Bạn chọc quê cái đầu tóc rễ tre lúc nào cũng
khét nắng, bây giờ đã hớt cao gọn gàng. Thời sinh viên nó vừa học vừa làm,
gà-mên cơm Mẹ bới cho treo lủng lẳng bên chiếc xe đạp, tới bữa thường ăn
chung với Bác bảo vệ trong khi các Bạn xuống căn tin… Ra trường ngày làm
hai ca, nó cũng như Bà trở về nhà khi Mặt trời đã đi ngủ. Một ông chủ trẻ
nghiêm túc với công việc, ba mươi ngoài mới dẫn cô dâu của mình về ra mắt
Mẹ. Bà cưới vợ cho con, mong mau có cháu nội cho vui cửa nhà.
Bình minh như một sự chờ đợi. Dậy từ rất sớm với thói quen thời vất vả,
những người phụ nữ một nắng hai sương thời gian chừng không đủ. Họ làm
việc, chợt bàng hoàng không biết trời đang vào khuya hay đã về sáng… Bên
ngoài tờ mờ cảnh vật, chỉ chờ có thế, Bà mở cửa bước ra tạ ơn Thượng đế
một ngày mới. Vươn vai với những động tác thể dục cho máu huyết lưu
thông, Bà cảm giác thật sảng khoái. Quét sân, hốt lá rụng, bật vòi nước tưới
những chậu cây cảnh và tia nắng đầu tiên bắt đầu xuyên qua những giọt
nước lấp lánh phản chiếu đủ sắc màu. Ánh sáng đó ban phát sự sống, trải
dài vô tận.
Các con đi làm, trả lại cho Bà không gian lặng yên! Công việc làm thoáng
đã xong. Mở tủ lạnh, Bà ngao ngán: - Đồ ăn hôm qua vẫn còn nguyên.
Thừ người ra, nhớ ngày con còn nhỏ, chẳng có bữa nào là thịnh soạn, sao
mà ngon lạ! Bà chỉ tính đủ phần con, còn mình ăn những gì còn lại để không
phải phung phí. Vậy mà cái hũ gạo của Bà chẳng khi nào đầy. Bữa ăn là một
ân huệ, không chỉ thức ăn mà được cùng ăn với người thân trong yêu thương
gắn kết. Uống vội ly sữa, Bà thay bộ đồ tươm tất, với tay lấy cái túi xách, bỏ
vào những thứ cần dùng, không quên mang theo chai nước lọc. Trong Bà
nôn nao như thiếu nữ lần đầu đi hẹn hò… Hôm nay , Bà định bụng bước ra
ngoài kia, nơi con đường dẫn lối không có đích đến, chỉ muốn đi lại những
bước ngày xưa với một tâm thái khác…
Sài Gòn với nhiều tuyến xe buýt, phương tiện giao thông giữa các quận,
huyện. Từ nhà, Bà đi bộ một đoạn ngắn là có trạm. Bà đứng ở trạm chờ thật
nhẹ nhàng như người đi rong chơi, không mang theo một đống hàng hóa
như thuở nào trong buổi chợ sớm mai đầy áp lực… Vừa lúc có chiếc xe buýt
ghé vô. Bước lên xe, theo thói quen Bà chọn hàng ghế thứ hai sau lưng tài
xế. Đó là ghế ngồi gần cửa để xuống hàng cho lẹ. Yên vị chỗ ngồi, trả tiền vé,
đảo mắt một vòng, Bà thầm nghĩ: - Xe giờ này không đông như xe sớm mai.
Cảm giác thân quen, gần gũi khiến Bà cứ tủm tỉm cười.
Chuyến xe ngày cũ của Bà thật vội, lên xe hấp tấp, kiểm lại hàng hóa.
Nghề làm bếp trong đầu chỉ có thực đơn và nguyên liệu. Bên ngoài màn đêm
với những ánh đèn lấp loáng. Tựa đầu lên thành ghế , Bà ngủ giấc mộng
thường chập chờn tiếp nối, mặc cho xe ghé vô bao nhiêu trạm nhưng khi đến
điểm dừng của mình mới bật dậy tỉnh táo, bước xuống xe với lủ khủ hàng
hóa. Trời vừa chớp mắt ưu tư với ánh sáng nhạt, trách Bà sao sớm rộn ràng
đánh thức. Bà đi cho kịp thời gian… khi sương đêm còn thấm lạnh vai áo,
con trăng về muộn, dõi theo Bà qua mỗi mùa vơi, đầy nhọc nhằn… Trở về
chiều ở trạm chờ xe buýt, có những hôm thành phố ngập trong mưa mùa,
mắt môi tím tái co lại giữa lồng lộng ướt run, Bà như manh áo thô trở tứ bề
giữa nắng mưa cuộc đời, vá víu yêu thương, hong khô muộn phiền. Khi
chuyến xe chuyển bánh mọi địa chỉ lướt qua thật mơ hồ nhưng trong Bà đã
có đích đến.
Khẽ thở dài, mới đó đã hơn hai mươi năm. Trước đây quá vội với ngày
sống, Bà không còn thời gian quan sát chuyển động chung quanh, không
cảm nhận được sự huyền nhiệm từ cuộc sống…
Xe đã vào trung tâm thành phố. Bà xuống xe tại một trạm không định
trước, đứng lại định thần nhìn quanh, bước những bước thật chậm, như
người ở dưới quê mới lên, hết nhìn bên này lại nhìn bên kia rồi ngửa cổ mút
mắt tòa nhà cao tầng, dãy phố với nhiều cửa tiệm bày bán đủ mặt hàng sang
trọng, người qua lại tấp nập. Bà được sống trong một thành phố văn minh,
giàu có, tiến bộ mọi mặt, vậy mà trước đây không biết, hay nói đúng hơn
những người mưu sinh vất vả, thời gian ngủ còn không có, lấy đâu thưởng
lãm cuộc sống. Định bụng mỗi ngày sẽ đi một tuyến đường, muốn nhìn
ngắm nơi cho Bà đủ cảm xúc để nhớ về hai tiếng gọi quê hương!
Cho đến một ngày, Bà xuống trạm xe buýt, còn đang tần ngần dõi tầm
mắt chung quanh. Phía bên kia đường có một quán cơm từ thiện với cái tên
“NIỀM VUI” gợi sự tò mò… Chưa vội bước qua, Bà ghé vô xe bán nước dạo
bên đường ngồi xuống, vừa uống từng ngụm trái dừa tươi, mát lạnh, vừa
làm quen hỏi thăm cô chủ. Được biết quán chỉ phục vụ hai ngày giữa tuần.
Tiếng cô hàng nước cất lên : - Sắp tới giờ cơm trưa rồi, lát Bà sẽ thấy người ta đến đông lắm.
Bà ngồi tám chuyện được một lúc. Quán bên đường bắt đầu có khách
đông dần, đa số là dân lao động, không biết họ đến từ đâu? Bà hiểu được
cảm giác này… Có phần cơm từ thiện, tiết kiệm được chút tiền. Giữa cái
nắng ban trưa, Bà nghe nao lòng như đứng trước một chiều thu hiu hắt khiến
nước mắt chảy tuôn.
Mang vội mắt kiếng giấu đi cảm xúc của mình, Bà thầm nghĩ: - Mỗi người chỉ có một cuộc đời, nếu không may gặp bất hạnh, xin có đủ
nghị lực để vượt qua và vươn tới.
Bà đứng lên, không quên cám ơn Cô chủ, mạnh dạn bước qua bên kia
đường. Chỉ còn vài người khách sau cùng, quán cơm từ thiện cũng khá rộng.
Người đứng gần cửa lên tiếng : - Bà dùng cơm?
Một người khác: - Bà vô trong ngồi cho mát.
Ngồi xuống một chiếc bàn gần quầy, Bà khẽ nói : - Cho tôi ít cơm thôi.
Vừa ăn, Bà vừa quan sát: - Có tất cả bốn người, họ đều là những người lớn tuổi, căn bếp không
được sắp xếp theo đúng quy trình một chiều nên bừa bộn vướng víu. Bà tự
cười thầm mình với cái nhìn nghề nghiệp.
Ăn xong , Bà đánh bạo hỏi thăm người đàn ông đứng ở quầy, chắc cũng
trạc tuổi Bà, nãy giờ nghe người khác gọi là ông Tư. - Ở đây , Ông có cần người giúp không?
Bỏ cặp mắt kiếng, Ông ngước nhìn Bà hồi lâu rồi trả lời: - Ở đây chúng tôi không thuê người làm như Bà thấy đó, bọn già chúng
tôi tự làm tất cả. - Không! Không, Ông đừng hiểu lầm! Tôi chỉ muốn giúp! Tôi có thời gian
và biết nấu….
Những người khác nghe Bà và ông Tư nói chuyện như hiểu ra. Ai cũng
bỏ việc đến bên quày góp vô mỗi người một câu. Họ là những người Bạn đã
về hưu, muốn sử dụng thời gian còn lại thật hữu ích. Họ không muốn tự kỷ
ám thị về hai tiếng tuổi già. Không muốn làm gánh nặng tâm lý cho con cái.
Nuôi con lớn đó là bổn phận Cha Mẹ, hãy cho con sự tự do sống cuộc đời
của nó. Chỉ sau thời gian ngắn ngủi nói chuyện, làm quen giới thiệu về nhau,
Bà với họ như không còn khoảng cách. Sự đồng cảm trong suy nghĩ khiến
mọi người xích lại gần nhau. Vẫn là tiếng ông Tư : - Được Bà chị giúp cho một tay còn gì bằng, nhưng phải cho con biết nhé!
- Ông yên tâm, tôi biết sắp xếp.
Cảm giác trên con đường trở về khác hẳn lúc đi. Bà tìm cảm hứng cho
ngày sống để xua tan sự nhàm chán! Được làm việc, được phục vụ người
khác đó là niềm hạnh phúc. Bên trong Bà như có ai đang nhóm lửa… Bà
không muốn lặng đi trong cái tĩnh mịch thời gian chờ đợi sự chết, chỉ là một
chuyến đi về, cứ thuận theo tự nhiên mà đến.
Xuống trạm xe buýt, Bà bước chân sáo, lòng khấp khởi vui như cô gái
đang xuân. Vô nhà rót ly nước lọc uống một hơi rồi đi thẳng xuống bếp đến
bên cái hũ gạo, tâm hồn Bà đang chuyện trò cùng hũ gạo. Bà truyền cảm
hứng và niềm vui cho nó! Từ nay nó không phải bị bỏ quên trong xó bếp với
số gạo cũ xì, nhạt thếch, cứ phải ôm ấp giữ lấy do những buổi cơm vắng
bóng con. Ngày mai, Bà sẽ đem hết số gạo này đi để hũ gạo lại được đong
đầy tươi mới.
Bà đến quán cơm Từ thiện cũng vừa kịp lúc mọi người. Ai nấy rất vui khi
thấy Bà trở lại.
Bà Tám lên tiếng : - Chị mang gì nhiều vậy?
Bà cười vui trả lời : - Có gì đâu, chỉ một ít gạo và rau.
Vào căn bếp nhìn quanh một lượt, Bà muốn một vài thay đổi cho tiện
công việc. Chỉ một loáng là xong .Tổ chức bếp là nghề của Bà. Nhân lực hôm
nay có thêm Bà là năm. Được xào, được nấu, nghe lại âm thanh lửa bừng lên
từ cái bếp khè, mùi thịt cháy xém gia vị khi chiên thật hấp dẫn. Bà như linh
hoạt hẳn lên không còn cái vẻ trầm mặc thường ngày. Ai nấy đổ mồ hôi sau
một hồi làm việc nhưng ánh mắt họ lấp lánh niềm vui, nụ cười rạng rỡ. Ai
cũng có cái để Cho đi và đó là Hạnh phúc. Đến giờ ăn, từng tốp người cứ
thế vào quán. Khách như quen thuộc với chỗ ngồi thường ngày. Năm người
phục vụ luôn tay trong thoáng chốc đã hết sạch thực phẩm. Hết giờ, họ ngồi
lại bên mâm cơm với những gì còn lại. Những con người tìm vui trong việc
phục vụ, ngày qua ngày, sẻ chia từng mẫu chuyện đời có lúc tưởng chừng
không qua được.
Hôm nay ông Tư nhắc chừng : - Bà Hai! Chị lưu địa chỉ và số điện thoại vào sổ nhé!
Khẽ cười , Bà lên tiếng : - Yên tâm, tôi còn mời mọi người đến nhà tôi một chuyến cho biết.
Nói rồi, Bà vỗ vỗ vào cái thùng nhựa cứng đựng gạo kế bên: – Cái hũ gạo
này trách nhiệm không của riêng ai! Tin đi, nó không những đầy gạo mà còn
nở hoa nữa…
Ông Tư tròn xoe mắt với câu nói bỏ lửng của Bà.
Chào mọi người ra về, đứng ở trạm chờ, Bà nghe nhói ngực trái. Đưa tay
lên xoa ngực vẫn là thói quen mỗi khi Bà thấm mệt với hơi thở thật nặng
nhọc. Mới đó đã tròn một năm kể từ lần đầu tiên Bà bước chân vào quán
cơm từ thiện “Niềm Vui”. Tình cảm mọi người dành cho nhau rất tốt. Ở đó
, Bà tìm thấy sự ấm áp như ngôi nhà thứ hai của mình. Xuống xe, Bà bước đi
trong trạng thái không trọng lực. Trái tim Bà mơ hồ thổn thức. Bệnh cũ rồi,
Bà biết có ngày này, cứ thế mà đến sao! Gọi điện cho con “Con trai…”. Tiếng
Bà đứt quãng rồi tắt lịm. Không biết Bà có kịp nghe ở đầu bên kia tiếng con
trai thảng thốt gọi Mẹ!
Ông Tư và những người bạn ở quán cơm Từ thiện đứng lặng trước di ảnh
người đàn bà. Những bàn tay run run với nén nhang không đành lòng cho
sự tiễn biệt. Khuôn mặt người trong khung ảnh đang nhìn họ như mỉm cười.
Con trai bà Hai đưa cho ông Tư cuốn sổ tiết kiệm người Mẹ để lại cho quán
cơm Từ thiện.
Đâu đó trong đầu ông lại vang lên: - Cái hũ gạo này trách nhiệm không của riêng ai…
Những giọt nước mắt không cầm được chảy dài.
Cả một đời nước mắt cứ chảy ngược vào trong như đến giới hạn. Họ
muốn được khóc thật to như đám trẻ con phật ý.
Hẹn gặp lại…
Những đóa yêu thương đã nở hoa giữa hũ gạo cuộc đời…!
Lê Yên
CỬA KHÔNG
Lão cố gắng với tay về phía ngọn đèn nhưng hoàn toàn bất lực. Sức lực nội tại như
tan biến, hòa vào hư không, bỏ trơ lại tấm thân tàn tạ vì mấy tháng trời rong ruổi cùng
chiếc xe đạp. Lão nhớ rất rõ tai nạn đã xảy ra như thế nào, mặc dù không chắc lắm hồi ức
của kẻ vừa thoát khỏi tay thần chết sẽ hoàn toàn chính xác. Sự chính xác mà theo Lão
nghĩ, như phạm trù ước lượng hơn là một định lượng rõ ràng. Như thế, nhưng con người
vẫn thích nói “chính xác” và không hiểu rằng muốn đạt được nó cần phải nhiều sự chính
xác hơn nữa để biến mớ hỗn độn mơ hồ trở thành một thứ chân thực, hiện hữu, có thể
cân đo đong đếm được…
Lão cố đưa cái chân lên trước mặt và muốn biết “chính xác” nó còn lành lặn, để có thể
cùng Lão lao vào cơn bão điên khùng nhất mà mình từng đối mặt. Cơn bão của lòng tự
trọng bị tổn thương, đau đớn, ngoắc ngoải, rên xiết và giận dữ. Sự giận dữ mà Lão chỉ có
thể tóm tắt với định nghĩa “tột cùng” của sự tột cùng không thể nào khác hơn. Có ai nghĩ
rằng, một Lão già ngót sáu mươi tuổi lại trải qua những điều Lão đang chịu đựng.
Cái đau đớn bên ngoài nào có sá gì so với sự thiêu đốt bằng lửa địa ngục, Lão từng
nghe các Thiền sư luận giải. Tám đứa con của Lão sẽ nghĩ gì, nếu biết Lão nằm đây, không
người thân thích, với những vết thương… cũng chỉ là vết thương, có thể lành trong nay
mai hoặc không bao giờ hồi phục… Bọn chúng ở xa lắm, đều bên nước người và không
thể nào hiểu được điều gì đang âm ỉ trong trái tim người Cha bất hạnh.
Quá khứ nào chẳng đẹp! Nếu không như vậy, tại sao con người phải mất thời gian để
nhớ đến. Theo cách nghĩ của Lão, cái đẹp trong quá khứ phải gắn mình cùng hiện thực.
Hiện tại đau khổ mà quá khứ vàng son chỉ làm cho con người dễ dàng rơi lệ. Còn nếu
như hiện tại vui thì quá khứ chẳng nghĩa lý gì. Chính vì điều này mà Lão rơi lệ, nước mắt
lai láng…
Cô gái đôi mươi ngày nào đã trở thành người Vợ hiền bên cạnh Ông chủ tàu cá, rồi
tiếp theo là những đứa con… Chúng lớn lên cùng biển và cũng chính biển đem chúng đi
xa…
Tám đứa con đều thành đạt tại nước ngoài. Tiền bạc không thiếu. Cơ ngơi khang
trang. Ấy vậy mà Lão bị vợ “cắm sừng”. Chuyện không thể tin và không thể nào “chính
xác” hơn chuyện ấy!
Điều này khiến Lão tổn thương, đau khổ lẫn thẹn thùng, bởi chính người đàn bà đã
cùng chung sống suốt mấy mươi năm. Làm sao có thể giải thích minh bạch và tận tường
một hệ quả đau khổ, bắt đầu bằng những tốt đẹp hằng đêm Lão ấp ủ, yêu thương, lẫn cả
sự trân trọng… Và mọi chuyện đã thay đổi đến thảng thốt, choáng ngợp mà ngay cả
những người thân nhất cũng sửng sốt trước hung tin:
- Lão đã bị bỏ rơi!
Bỏ rơi một cách không thương tiếc và lạnh lùng ở cái tuổi gần đất xa trời. Điều này
thật khó chấp nhận…
Nếu như ngày còn trẻ, cuộc sống chung đụng đưa đến bất hòa, ly hôn, hoặc ly thân
là chuyện bình thường. Nhưng… Lão bị vợ cho “rơi” vào lứa tuổi ngót sáu mươi. Một
việc không thể tin nhưng chẳng cách nào “khước từ” khi chuyện Vợ Chồng luôn bắt đầu
từ hai phía. Có thể, Lão muốn níu lại chút hy vọng nào đó, nhưng mọi cái trở nên bỉ ổi
và đáng khinh khi nghĩ đến hành động van xin hay cầu khẩn trước người Vợ trẻ nhỏ hơn
mình mười mấy tuổi…
Cuộc sống vốn đẹp khi mọi cái thật hoàn hảo và sẽ trở thành địa ngục khi hiện thực
trở thành ảo ảnh. Một thứ ảo ảnh không thể sờ nắm, chỉ dùng mắt nhìn nó xuất hiện rồi
tan biến tận trời xa. Lão nghĩ mình đang bị quả báo của Tiền kiếp nên mới gặp cảnh ngộ
này. Bi thương, uất hận, khinh bỉ, xuất hiện trong lão như cơn bão dữ…
Lão bị cơn bão ấy lôi đi xa mà không có hành động nào cưỡng lại. Tài sản, cơ ngơi
không còn quan trọng! Đối với Lão chỉ là sự trốn chạy, thoát ly, tránh xa cõi Trần tục mà
tự thân luôn là nỗi sầu đau giam hãm con người. Lão nguyện lên núi, đến Chùa xin xuống
tóc quy y cửa Phật. Và trong cơn phẫn nộ, nếu bị chối từ Lão sẽ tìm đến cái chết như sự
giải thoát thiết yếu không phải cãi bàn.
Mọi cái lại cay đắng hơn khi cõi Tục vẫn là cõi tục. Tự thân những ngôi Chùa đã bị
loài người biến thành nơi mưu sinh không tốn chút mồ hôi. Mớ tóc trên đầu Lão vẫn còn
đó, bởi lẽ nó không thể rơi xuống cho một ước nguyện đơn giản nhưng lại không đơn
giản chút nào. Đâu phải ai, cứ muốn là được, quỳ xuống chân Phật thí phát rồi bỗng chốc
trở thành Hòa thượng, trút bỏ mọi đau khổ của nhân gian. Đi Tu cũng phải có giá của nó,
nếu không khắp Thiên hạ chắc dẫy đầy Hòa thượng… Điều này khiến Lão đau khổ cực
cùng, chao đảo như cánh chim giữa gió ngàn mất hướng…
Sườn núi phía Tây không có chiếc xe đạp, phương tiện duy nhất trong cơn phẫn uất
Lão đã mang đi. Khi con người sầu khổ, bế tắc lại muốn hành hạ thân xác đến kỳ cùng
và Lão đã dùng nó vượt qua mấy trăm cây số để đến được nơi này. Một địa điểm đã được
lựa chọn, một kết cục đã phơi bày. Thế mà quyết định sau cùng là sườn núi phía Tây,
hướng về quê Phật, Lão tự quyết số phận chính mình…
Ai có thể thấu hiểu tâm trạng của Lão trong sự nhếch nhác, rã rời bởi những đêm
không ngủ. Hành trình như kẻ mộng du. Bước đi trong vô thức chẳng rõ ràng đích đến.
Râu tóc lổm ngổm vì trí nhớ bỏ quên. Và từ trên thân thể cáu bẩn bốc lên cái mùi khăm
khẳm, ràn rụa mồ hôi bởi những tháng ngày rong ruổi mê muội. Nhìn những kẻ thoáng
qua trên đường dâng hương lễ Phật, trong bóng tối mù đen phủ đầy tri giác bỗng bừng
lên một hy vọng. Ngọn lửa bừng lên từ tâm khảm hướng bước chân ngoắc ngoải, thương
đau, lần tìm về thánh địa giải thoát. Chỉ cửa Phật mới chứa chấp con người cùng khốn.
Chỉ Phật môn thanh tịnh mới giúp Lão nguôi ngoai nỗi khổ đang thống trị mình…
Thế nhưng Lão bị từ khước! Khước từ bởi nhiều lý do mà trong phẫn nộ Lão vẫn thấy
được… Lão trở thành kẻ vô gia cư đang tìm nơi lánh ẩn hơn là một kẻ chán ngắt cảnh
Phàm trần muốn trốn chạy Thế nhân. Sự từ chối lạnh lùng thay cho cách giải thích thỏa
đáng… Và Lão tìm đến sườn núi phía Tây như cứu cánh cho sự giải thoát yên bình…
Lão chưa thể chết vì cái trượt chân trong bóng tối. Ý định chỉ còn một nửa khi Lão lăn
mình xuống sườn dốc đầy cỏ dại. Mở mắt ra, Lão thấy mình nằm đấy, trơ trọi, hiu hắt và
tự hỏi tại sao mình vẫn sống… Sống trong nỗi chết, sống trong ký ức kinh hoàng về một
gia đình bỗng chốc nát tan, vỡ vụn từng mảnh, vô vọng cứu vớt. Ấy vậy mà Lão vẫn
sống… Sống thừa và ô nhục…
Cái chết đã từ chối thân xác mỏi mòn, khô héo. Cái chết thật bất công khi chẳng ra tay
cứu rỗi một linh hồn nhỏ bé đang tự nguyện dâng mình… Lão nằm đấy với tri giác hỗn
loạn, bất định, với hơi thở đứt đoạn từng nhịp, nhưng… vẫn cứ sống…
Hấp lực Trái đất đã kéo Lão lăn xuống một căn chòi bỏ không thay cho địa ngục. Và
khi tỉnh lại, Lão nguyền rủa sự may mắn của chính mình. Bây giờ, Lão muốn tiếp tục
được rơi xuống nhưng thân xác lại đông cứng không thể cưỡng cầu. Số phận đã có tiếng
nói quyết định về một con người đang cố tìm chết. Số phận đang mỉm cười trong khi Lão
là kẻ khóc than…!
Cái chết là một phần của sự sống. Cái chết đưa linh hồn vào vòng sanh tử thuyết luân
hồi. Lão đã nghe và đọc nhiều điều đó trong kinh sách, nhưng vẫn không hiểu được kết
quả chính mình. Bố thí tạo Phước, Lão đã làm không ít. Đi Chùa lễ Phật là công việc thanh
thản mỗi tháng Lão đều làm… Ấy vậy mà mọi thứ đều quay lưng. Quay lưng trong hoàn
cảnh tuyệt vọng nhất của một con người lạc lõng không nơi bám tựa.
Sự lạnh lùng đó có phải do tiền kiếp Lão đã gieo nhân – một suy nghĩ lâu nay Lão vẫn
nghi ngờ nhưng lại trở thành hiện thực. Thế thì công đức bao lâu nay đi về đâu trong
khung cảnh thương hải tang điền – biển cả biến thành nương dâu? Lão muốn la to trong
nỗi thống khổ nghẹn lời. Muốn gào thét vang vọng thấu trời cao. Nhưng… trong thâm
Tâm hiểu rằng đó là sự vô ích dại khờ. Không ai có thể cứu Lão! Không ai đổi hướng để
“quay đầu” – đáo đầu thị ngạn. Mọi sự đều quay lưng… Cái chết như sự cứu rỗi cũng
quay lưng. Lão buồn trong sự sống và lẫn cả cái chết…
Mưa ư ? Ồ, mưa từ mắt Lão! Vị mưa mằn mặn chảy trên đôi môi nứt nẻ, bỏng rát…
Mưa được định nghĩa là nước trên cao rơi xuống. Mưa tự nhiên và mưa nhân tạo. Lão
cười vì mình có tài làm mưa. Mắt Lão làm ra mưa! Gọi là mưa tự nhiên hay nhân tạo
nhỉ?…
Trăng non trên sườn núi phía Tây xuyên qua mái tranh lỗ chỗ. Ánh đèn lay lắc vì
những ngọn gió va đập vào vách núi… Tất cả điều này báo hiệu sự sống khi nhận thức
quay về. Thế mà Lão đâu có vui… Ý Lão ra sao…!? - Chú tỉnh rồi à?
Trong ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn, Lão cố giương đôi mắt mỏi mệt để nhìn. - Chú là ai?
- Tôi là người dọn dẹp.
Lão lấy làm lạ lắm. Trên đời có nghề dọn dẹp ư? - Chú dọn dẹp cái gì?
- Bất cứ thứ gì mà con người muốn. Tôi làm họ trả công. Có khi làm không công nữa
ấy!
Lão muốn ngồi dậy lắm, nhưng không sao thực hiện được. - Có việc ấy sao?
- Có đấy! Những việc không phí sức biết tính làm sao?
Hoặc giả khi gặp kẻ nghèo khó thì giúp giùm. Như thế là không công.
Lão muốn cười lắm nhưng đầu lại choáng. Lời nói người này khiến Lão nhớ đến một
việc. - Chú muốn tạo Phước bằng cách Bố thí công sức ư?
Vẫn tiếng nói nhẹ nhàng ấm áp vang lên. - Bố thí không phải là tạo Phước. Bố thí chỉ có ý nghĩa như hành vi san sẻ giữa con
người với nhau. Việc này lâu ngày sẽ giúp ta xem thường ngoại vật mà xuất Tâm từ bi.
Dù sao Lão vẫn cố cười trước lời nói này. - Các nhà Sư vẫn nói “Bố thí là tạo Phúc” kia mà?
- Đó là một nhầm lẫn có khối người tin theo. Chú cứ nghĩ mà xem, nếu Bố thí là tạo
Phúc thì bao trùm trong Thiên hạ ai nhiều tiền bằng Vua chúa, Quan lại… Những Quan
chức, kẻ giàu sang, Phúc sẽ to như Thái sơn. Còn người nghèo, không tiền Bố thí lại vô
Phúc ư?
Đến đây thì Lão thở dài. Lão vẫn thường Bố thí kia mà! Nhưng… kết quả… - Vậy làm sao để có Phúc?
Phúc đến do Duyên.
Họa đến cũng Tùy duyên. - Thế “Duyên” từ đâu mà có?
- Duyên không hình hài nhưng Phúc họa lại có. Vậy, nhìn Phúc họa thì được “Duyên”.
Muốn thì thấy, không muốn lại trở về Không.
Trong lòng Lão cực kỳ kinh ngạc. - Chú là… nhà Sư…?
Tiếng cười thoảng trong gió. - Tôi là người dọn dẹp. Chú quên rồi à?
- Cách nói chuyện này của nhà Sư kia mà?
- Ngôn ngữ là của chung. Chẳng lẽ tôi không được nói?
Lão bắt đầu tôn trọng người này. - Ai thường thuê Chú dọn dẹp?
- Nhà cửa bề bộn không có đường đi thì thuê tôi. Cây cối rậm rạp cản trở tầm nhìn thì
thuê tôi.
Tâm trạng ngổn ngang thì… - Thì… sao…?
- Thì dọn dẹp.
- Chú giúp được sao?
- Cái đó thì tôi không giúp được. Ngay cả hiền giả Thích Ca cũng không giúp được.
Lão bắt đầu giận dữ.
Người ta thường nói: - Phật độ Chúng sinh”kia mà? Thật là vô lý…
Vẫn giọng nói bình thản ấy vang lên. - Nếu nói “Phật độ Chúng sinh” cũng chưa gọi là đúng.
Phải nói rằng “Chúng sinh độ Phật” để được bình đẳng hơn. Hiền triết Thích Ca đã
nói rằng: - Ta chỉ là người phát hiện ra Chân lý chứ không phải là kẻ Sáng tạo ra Chân lý. Ta có
thể chỉ ra con đường giải thoát nhưng không thể nào đi thay cho các người được…
Như vậy khi ta coi đây là một tiền đề thì rõ ràng Phật không thể nào độ được chúng
sinh, mà chúng sinh lại độ được Phật ấy.
Khi còn trẻ Thích Ca sống trong chúng sinh và thấy được kiếp người khốn khổ mới
quyết tâm Tầm đạo “giải thoát”, cuối cùng đắc nguyện. Vậy, nếu không có Chúng sinh
thì Ngài làm việc ấy để mà chi? Hiện tại các bậc chân Tu tại Chùa chiền, nếu ngày nào đó
đắc ngộ chân lý, cũng đã được Chúng sinh độ trì chén cơm manh áo. Như vậy chúng
sinh đã độ được Phật thì phải tự độ cho chính mình, bởi hiền giả Thích Ca nói, không thể
nào đi thay cho ta được… - Vậy người ta đi Tu, lạy Phật để làm gì?
- Tất cả chỉ là phương tiện. Ngay cả thân xác ta cũng là phương tiện để tìm hiểu về
“Chân lý Giải thoát”. Sở dĩ hiền giả Thích Ca không lập văn tự, vì sợ rằng các Học trò sẽ
cho lời nói của mình là Chân lý, thay vì là Phương tiện nên mới vậy! Chú có thấy vầng
trăng kia không?
Đó chính là “Chân lý Giải thoát” mà hiền giả Thích Ca đã từng nói. Thế nhưng con
người cứ cho ngón tay của Ngài là Chân lý chứ không chịu nhìn về ánh trăng.
Ngón tay chỉ là Phương tiện. Ngũ giới cũng là Phương tiện. Tụng kinh niệm Phật
cũng là Phương tiện.
Đã là Phương tiện thì có nhiều cách thay thế. Giống như muốn qua sông thì phải dùng
đò, không đò thì thay thế bằng bè, hoặc giả bơi qua vậy. - Vậy làm sao để Giải thoát nếu không vào Chùa tu tập?
- Nhà Chùa cũng là Phương tiện. Nếu không đến Chùa,ta có thể truy tầm Chân lý qua
con đường nhận thức. Mọi khổ đau trong thiên hạ vốn xuất phát từ Tâm. Ta chấp trước,
ta tham dục, ta vọng tưởng, ta tham ái, đó như mảnh đất mầu mỡ cho Tam độc trỗi dậy
khơi gợi khổ đau. Vô thường là sự thay đổi. Hai người đi chung lâu ngày tất bị chi phối
bởi quy luật thành hoại, hợp ly, có sự chết và sống. Nếu cả hai thay đổi theo hướng giống
nhau là hợp, còn khác nhau lại ly. Ly lại phát triển theo hướng mới rồi hợp ở một nơi
khác. Giống như ngọn lửa, tắt nơi này lại cháy tại nơi kia… - Hiện tại tôi đau khổ cùng cực, phải làm sao để giải tỏa?
- Đau khổ là hạt giống. Tâm tư là mảnh đất gieo trồng. Giữ cho Tâm tĩnh lặng như hư
không, khổ đau bám vào đâu.
Trời đêm lạnh lắm, Lão trở mình nằm suy nghĩ. Nếu Tâm trống rỗng thì thành người
chết mất rồi. Người chết khổ hết. Nhưng lão muốn chết cũng đâu có được! - Làm sao để có Tâm không?
- Mây bay nước chảy, con người cho rằng bình thường. Mặt trời lặn, mọc chẳng ai
quan tâm. Con người chỉ quan tâm những điều liên hệ đến thân mà thôi.
Vậy quên thân thì được “Tâm không”. - Trời ạ! Làm sao có chuyện đó?
- Có đấy thôi. Chú hành hạ thân xác và ra tận sườn núi phía Tây, nơi nguy hiểm để
làm gì? Chú không màng sự sống, sao để tạp niệm nhiễu phiền. Mọi cái là “không” thì
muôn việc bình thản. Tạp niệm, vọng tưởng tiêu tan, gọi là đắc ngộ Niết Bàn vậy. - Thế thì Niết Bàn có hay không? Phật có hay không?
- Có và không chính là vọng tưởng. Bặt hết mọi vọng tưởng mọi cái đều là “Không”.
Người đời thường nói: - Khi Mê thì ở bờ bên này. Khi Ngộ thì ở bờ bên kia. Như thế là Chấp trước. Lúc ngộ
rồi là “lìa cả đôi bờ”.
Như vậy cũng là “Không”.
Ánh sáng ngọn đèn nhòe đi trước mắt Lão. Hình ảnh người nói không thể phân định
rõ ràng. - Chú tên gì vậy?
- Tôi không có tên.
- Lời nói của Chú, tôi thấy lạ lắm!
- Không gì là lạ. Tự thân chân lý đã sẵn có, chỉ tại con người chưa gặp Duyên đối diện
với chính mình.
Lão thấy đôi mắt mình trĩu nặng. Lời nói người kia lơ mơ trong tâm thức lẫn lộn tỉnh
mê. Lão muốn tranh luận tiếp nhưng sức lực đã đến hồi cạn kiệt. Chỉ giấc ngủ mới khiến
con người tỉnh táo và khỏe mạnh hơn sau những lao lực miệt mài. Thế là Lão thiếp đi,
êm ái như đứa trẻ thỏa mãn cơn khát sữa trong đôi tay dịu dàng của mẹ hiền. Gió núi cất
điệu ru hời. Trời làm chăn màn. Đất thay chiếu manh. Hạnh phúc ngắn ngủi chợt đến
như cơn mưa xóa tan oi bức của hạ mùa nóng bỏng…
Tiếng chim hót lảnh lót trong nắng mai khiến Lão choàng tỉnh. Lão nằm im, hồi tưởng
tất cả sự việc đã xảy ra. Biết đâu đây là một Thế giới khác chào đón Lão từ cái trượt chân
trong đêm tối. Và linh hồn Lão đang lang thang đâu đó trong địa ngục thâm u tại cửu
tầng. Lão dụi mắt để trông mọi vật rõ ràng hơn với những hồi ức liên tục hiện về. Căn
chòi lá với những cơn gió núi. Tiếng nói ấm áp của người lạ trong ánh sáng nhập nhoạng
bởi ánh đèn… Tất cả những việc ấy thoáng qua như cơn mơ được kết dính tự thuở nào.
Lời Kinh, tiếng Kệ, những đoạn minh triết từ các Luận sư lưu lại trên các trước tác của
mình. Tất cả lung linh đến huyền ảo trong mắt Lão…
Chậm rãi và khoan thai, Lão đứng dậy trên đôi chân ngập đầy vết xước. Cái đau đã
bị chôn vùi và chết lặng trong thân xác lãng quên. Bỗng chốc mọi cái vụt tan biến, mất
tăm như hòn đá được ném vào biển cả… Tiếng nói trong đêm tối. Ánh đèn. Lời kinh.
Tiếng kệ. Chúng đang tan ra, hòa vào không gian và mất dần trong mắt Lão…
Sườn núi phía Tây không có ánh Mặt trời. Mặt trời sau lưng, để lại bóng chiếu hướng
về Tây, như ngón tay của hiền giả Thích Ca nhắn nhủ cùng nhân loại. Lão tiến dần xuống
núi trong bóng râm hòa dịu, không còn bận tâm đến con người kỳ lạ đã chuyện trò cùng
mình trong đêm tối khổ đau. Mọi cái đều không thật! Trong lòng Lão chỉ còn một niềm
Tin không gì lay chuyển. Theo hướng bóng chiếu Mặt trời, cuối cùng Lão sẽ bước vào
vùng sáng rực rỡ của ngày mới.
Không môn đang mở. Lúc ấy, mọi sự đều biến mất. Và xác thân lẫn tinh thần này đều
hòa vào vĩnh viễn Cửa Không…
Lời bạt
Câu chuyện được hư cấu trên một phần của sự thật, nhân chuyến hành hương về núi
Bà Đen, Tây Ninh cách đây hơn hai mươi năm. Người đàn ông trong truyện là có thật,
với số phận tương tự mà tôi cố gắng lột tả tâm trạng qua khả năng thô thiển của bản thân.
Tinh thần câu chuyện đã mượn triết học Phật giáo làm nền tảng, với tư tưởng sâu sắc
của hiền triết Thích Ca, người sáng lập ra Phật giáo, của sư tổ Đạt Ma và lục tổ Huệ Năng,
cùng các trước tác của nhiều học giả được thể hiện qua trí nhớ. Nếu trong tác phẩm có
đoạn nào trùng lặp hay giống ý, chẳng qua là sự thống nhất về cách nhìn nhận thông qua
quan điểm cá nhân. Suy nghĩ của nhân vật tự thân đã có ngoài đời, chứ không nhằm vào
cá nhân hay bất cứ tổ chức nào hiện hữu.
Và tôi viết tác phẩm này nhân cảm hứng từ bài viết của một người bạn biết nhau qua
văn hóa mạng. Người bạn ấy, tôi chưa từng hỏi tên, sinh nghiệp ra sao, gia cảnh như thế
nào… Chỉ biết rằng đó là người bạn “Tinh thần” được tôi trân trọng viết tặng câu chuyện
này, với niềm tin mọi sự đều hòa vào… “Cửa Không”…
Kính bút
MAC DUNG
LÒNG TỐT NHƯ MỘT HẠT MẦM NẾU ĐƯỢC GIEO TRỒNG SẼ TỰ KHẮC NỞ HOA
Một bài viết được đăng tải trên Facebook đã nhận được sự chú ý của độc
giả trong thời gian dài. Đó là câu chuyện kể về lòng tốt giữa những con người
hoàn toàn xa lạ, những sự tử tế im lặng không cần nói thành lời.
Vào buổi xế chiều một ngày mùa đông, như thường lệ, tôi xếp hàng vào
dòng người chờ xe buýt trở về nhà. Khi ấy có khoảng năm, sáu người cũng
đang xếp hàng lặng lẽ và yên tĩnh cùng tôi. Từ xa, một người đàn ông dắt
theo một chú chó chậm chạp tiến đến.
Khi họ đến gần, tôi nhận ra đó là một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Anh
đang nắm chặt sợi dây kết nối với chú chó chỉ đường chuyên nghiệp của
Đức dành cho người mù. Sau đó, anh từ từ đi về hướng trạm xe buýt, cùng
xếp hàng với dòng người đang chờ đợi xe.
Không một ai bắt chuyện với chàng trai mù, còn tôi cũng đang do dự:
- Không biết có nên tiến về phía trước dắt anh ta hay không?
Ngay lúc đó, người đàn ông trung niên đứng ở hàng đầu tiên đã rất
nhanh gập cuốn sách đang đọc dở trên tay. Ông ấy bước về phía sau chàng
trai mù xếp hàng. Lập tức, những người xếp hàng còn lại cũng lần lượt lặng
lẽ đứng về phía sau của chàng trai.
Anh từ từ đi về hướng trạm xe buýt, cùng xếp hàng với dòng người đang
chờ đợi xe
Đứng cạnh tôi là một cô gái có mái tóc ngắn màu đỏ liếc nhìn chú chó chỉ
đường. Có lẽ cô sợ mùi thuốc lá ảnh hưởng đến thị giác của nó nên vội dập
tắt điếu thuốc lá vừa mới châm xong. Lại có thêm một người nữa xếp hàng
đợi xe, người này cũng lẳng lặng đứng phía sau người mù và chú chó ấy.
Giữa những người xa lạ, họ không nói một lời nào nhưng lại rất hiểu ý nhau.
Cứ như vậy, cho đến khi xe bus tới.
Tôi nói: - Đợi một chút,….
Người tài xế rời khỏi ghế lái chuẩn bị bước xuống để dắt chàng trai mù
lên xe. Thế nhưng chàng trai đã lịch sự từ chối: - Cám ơn Ông, không cần đâu ạ !
Chàng trai tiếp tục theo sự dẫn đường của chú chó, tự mình bước lên xe.
Khi ấy là giờ cao điểm tan sở, xe đã chật kín người.
Ngồi sau lưng tài xế là một cậu bé khoảng 5-6 tuổi, bên cạnh là Mẹ của
cậu. Bà nhanh chóng bế bổng cậu bé ra khỏi chỗ ngồi để nhường ghế cho
chàng trai kia. Mặc dù hành động của người Mẹ rất đột ngột nhưng cậu bé
không hề có chút nào khó chịu hoặc không hài lòng mà vẫn im lặng. Nhìn
thấy chỗ trống, chú chó chỉ đường liền nhanh chóng dẫn chàng trai mù ngồi
vào ghế, sau đó lặng lẽ nằm bên cạnh chủ. Khi tất cả những sự việc này diễn
ra, chàng trai mù không hề hay biết. - Xin hỏi anh muốn đến đâu?
- Tôi muốn đến đường Moore.
- Vâng, thưa bệ hạ !
Câu trả lời hài hước của tài xế khiến mọi người trong xe đều bật cười vui
vẻ. Chiếc xe chở đầy sự hân hoan vui vẻ của mọi người cứ thế tiếp tục tiến
về phía trước..
Khi ở trên xe, cho dù những lúc xe phanh gấp hay cua rẽ, chú chó vẫn
luôn giữ tư thế rất tập trung và mắt hướng về phía trước. Mọi người đều rất
tò mò quan sát nhưng không có ai có ý định đến vuốt ve hoặc dùng điện
thoại để chụp hình nó.
Bên cạnh tôi là cậu bé đã nhường vị trí cho chàng trai mù. Cậu lấy tay bẻ
một nửa chiếc bánh định cho chú chó ăn. Thế nhưng Mẹ cậu bé đã nhanh
chóng ngăn lại và nói nhỏ: - Chú chó đang làm công việc của nó, con đừng làm ảnh hưởng đến nó.
Nghe thấy từ “Công việc,” cậu bé lập tức rút tay lại từ bỏ ý định cho chú
chó ăn.
Thành phố không quá lớn, rất nhanh đã đến trạm cần đến, chàng trai mù
nhanh chóng chào tài xế, sau đó cùng chú chó chỉ đường xuống xe. Không
khí trầm lặng bao trùm trong xe. Thế nhưng, đằng sau ấy là sự yêu thương,
tôn trọng không nói lên lời.
Lòng tốt là ngôn ngữ kỳ diệu mà người điếc có thể nghe và người mù có
thể cảm nhận.
Thiện Nam tổng hợp