Trong ngôi chùa kia, có hai thầy trò, ngày nọ người học trọ bỗng
thích trồng hoa.
Khi xong thời kinh, khi hết việc chùa, người học trò lại loay hoay
ngoài vườn, cuốc đất, ươm mầm, giâm cành, tưới nước, chăm hoa.
Thấy học trò say mê ở mãi ngoài vườn với những luống hoa, người
thầy mỉm cười nói:
“Con muốn trồng hoa thì trồng, trồng hoa gì cũng được, làm gì cũng
được, nhưng phải nhớ đừng cho nó mọc rễ!”
Không phải không cho hoa mọc rễ, mà không cho lòng mọc rễ với
hoa, mọc rễ đối với tất cả những việc mình làm. “Mọc rễ” là cố chấp, là
dính mắc, là bám víu, là không buông xuống được, là những khoảnh
khắc chúng ta cố nắm chặt tay lại để giữ một điều gì đó từ cuộc sống.
Đau khổ đến khi chúng ta cố bám vào thứ đã mất đi, hay cố chấp
tiếc nuối đối với một thứ gì đó đã không còn, những chiếc rễ bị đứt lìa
ra theo thứ nó cố bám chặt vào vừa bị cuộc sống lấy đi mất, nên nhất
định phải đau.
Khi để tâm mình “mọc rễ”, bám víu, vào một thứ gì, chúng ta sẽ bị
chính thứ đó làm cho tổn thương.
Buồn cũng được, nhưng đừng để lòng mọc rễ với nỗi buồn, vì chắc
chắn những chiếc rễ sẽ gom góp hết những gì đắng nhất của nỗi buồn
rồi làm thành nỗi đau. Nỗi buồn như một vết trầy xước nhỏ, còn nỗi
đau là một vết thương to; nỗi buồn thì mơ hồ, còn nỗi đau luôn rất
thật.
Vui cũng được, nhưng đừng để lòng mọc rễ với niềm vui, vì chắc
chắn những chiếc rễ sẽ cố gom hết những gì đẹp nhất của niềm vui,
rồi ra sức giữ lại, không muốn mất, không cho mất, không được mất.
Nhưng có thứ gì không mất? Có niềm vui nào không phai? Nên khi cố
bám víu vào niềm vui, ngay lúc đó, thứ đó không còn là niềm vui nữa,
mà bắt đầu trở thành những âu lo.
Làm việc thiện cũng được, nhưng đừng để lòng mọc rễ với những
việc làm thiện, nói mãi về việc làm của mình, muốn ai cũng nghe cũng
biết về việc làm của mình, muốn người nhận phải nhớ, không được
quên, rồi chẳng còn thời gian để làm được thêm một việc nào khác
nữa.
Những chiếc rễ bám vào đất, lâu ngày, sẽ làm cho đất phai màu,
những chiếc rễ cố chấp bám víu vào những việc thiện đã làm, lâu ngày,
sẽ làm cho những việc thiện không còn đẹp như buổi ban sơ nữa.
Khi bám víu vào một suy nghĩ, sẽ bị mắc kẹt trong một suy nghĩ. Khi
bám víu vào việc làm, sẽ bị mắt kẹt trong việc làm. Khi bám víu vào vẻ
bề ngoài, sẽ bị mắc kẹt trong những sắc tướng; và khi cố bám víu vào
sự sống, sẽ mang đến nỗi lo sợ đối cái chết, nỗi lo sợ cái chết làm chúng
ta hoang mang đến cùng cực, không thể bình thản sống trọn vẹn được
một ngày nào.
Không buông xuống được những việc thiện mình đã làm là không
có trí tuệ, không buông xuống được những người mình giúp đỡ là
không có từ bi.
Trong tương lai, khi nhìn lại, có lẽ chúng ta sẽ tự cười nhạo bản
thân vì một số điều đang làm trong hiện tại, dù làm việc thiện, nhưng
vừa không có trí tuệ, vừa không có từ bi.
Người ngủ an.
Vô Thường
Núi 28.3.2021
Om Mani Padme Hum
Month: March 2021
GIỌT NƯỚC CÓ BUỒN KHÔNG?
Có lần tôi được nghe một bài hát của Trịnh Công Sơn với những ý
lạ, “Biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu? Biển sóng
đừng xô ta, ta xô biển lại sóng nằm đâu!” Ông kể, ông viết bài đó do
cảm hứng khi nghe tụng câu kinh Bát Nhã “Gate, Gate, Paragate,
Parasamgate, Bodhi Svaha.”
Ông giải thích ý mình, “Tuy là do cảm hứng bắt nguồn từ câu kinh,
nhưng nó không nương tựa gì câu kinh cả. Tôi muốn nói, sống trong
cuộc đời, ta đừng nuôi thù hận, đừng có ác ý trong cuộc tình. Đừng để
trong tình thương có bóng dáng thù địch, của lòng sân hận. Sóng xô
ta, ta xô lại sóng. Biết bao giờ mới đến được bờ bên kia của tịch lặng,
của bình an!”
Ông nói về những cuộc tình, mà cuộc đời cũng thế, bạn có nghĩ vậy
không? Vì cuộc đời cũng được làm bằng những mối liên hệ giữa ta với
người chung quanh. Mà nếu mỗi lần “sóng xô ta” rồi “ta xô lại sóng”,
thì biết bao giờ biển khổ này mới được yên, tâm hồn này mới được
tĩnh lặng phải không bạn!
Tôi nghĩ sự tu tập trước hết là để đem lại cho ta một tấm lòng. Một
tấm lòng, một con tim rộng lớn, không nhỏ nhen, không nghi kỵ,
không xô đẩy nhau. Một tấm lòng không cô lập, không cố chấp. Một
tấm lòng vững chãi và thảnh thơi có khả năng che chở và soi sáng ta
giữa cuộc đời. Với tấm lòng rộng mở ấy, mọi khổ đau sẽ được chuyển
hóa.
Tôi có thể nói cho bạn nghe về sự cần thiết của sự đổi thay và vô
thường trong cuộc sống. Tôi có thể nói về một thực tại nhiệm mầu.
Tôi có thể kể cho bạn nghe làm sao ta có thể tiếp xúc được với hạnh
phúc, trong khi hiện tại là khổ đau…. Nhưng tôi nghĩ chữ nghĩa thì bao
giờ cũng quá dễ dàng, và nhiều khi còn là thừa thãi! Tôi vẫn còn đang
thực tập những gì mình đã được dạy. Có những ngày thân tôi đau, tâm
tôi bất an, hạnh phúc dường như là chuyện của hôm qua. Những ngày
ấy, tôi bước ra ngoài, tập đi thiền hành trên con đường nhỏ, nhìn trời
xanh mây trắng, có những đàn ngỗng trời bay ngang qua kêu vang
không trung. Tôi tập nương tựa vào sự vững vàng của con đường
mình đi, vào trời xanh mây trắng, vào hạnh phúc của những người
chung quanh. Hạnh phúc đâu phải chỉ có mặt trong một không gian
hoặc thời gian nào giới hạn của riêng tôi! Nó rộng lớn hơn thế. Sự sống
của tôi và bạn không có một đoạn cuối, dầu khổ đau hay hạnh phúc.
Nó là một tiến trình tiếp tục mà ta có thể bắt đầu lại bất cứ một lúc
nào!
Đêm nay trăng sáng yên ngoài cửa sổ. Trong căn phòng viết nhỏ
của tôi có một vùng ánh sáng nhỏ tĩnh lặng. Cho rằng cuộc đời này là
khổ đau, hoặc hạnh phúc, cũng còn là vội vàng và giới hạn quá. Trên
bàn viết, tôi có chép lại một bài thơ của bác Ngọc Quế in trong tập sách
bác gởi tặng nhà hôm nào:
Ngàn năm,
Giọt nước có buồn không?
Sao vẫn long lanh
Dưới ánh hồng
Trên cánh sen vàng
Ai biết được
Ngàn năm
Giọt nước có buồn không?
Đêm đã khuya. Tôi thổi tắt ngọn nến trên bàn. Một làn khói tỏa nhẹ
dưới ánh trăng xanh.
Nguyễn Duy Nhiên
LỜI KINH TRONG LÒNG BÀN TAY (6)
“Những suy nghĩ trong tâm âm thầm tồn tại, đi không ai biết,
đến không ai hay, mơ hồ hơn khói sương nhưng lại rất bền chắc,
buộc giữ con người ở lại trong khổ đau bất an trăm nghìn kiếp.”
Suy nghĩ của một người là số phận của chính họ.
Những suy nghĩ trong tâm như khói như sương, quá mơ hồ để
có thể cảm nhận được, nhưng khi những suy nghĩ đó được lập đi
lập lại mỗi ngày và trở thành một thói quen, lúc này chúng trở
rắn chắc đến mức rất khó để có thể phá vỡ được, chúng lẫn trong
ánh mắt, nằm trong lời nói, và đứng sau tất cả những việc làm
của mỗi người. Miệng nói những gì đang nghĩ, chân đi theo
những gì đang tính toán, tay cố giữ lấy những gì đang mong
muốn, và mắt chỉ nhìn thấy những gì đang tồn tại trong lòng.
Những suy nghĩ trong tâm mơ hồ như sợi khói sương, nhưng
chúng ta dệt thêm cho nó mỗi ngày, bện vào thêm, nối vào thêm,
biến nó thành một sợi dây thật dài và thật chắc, dài vừa đủ vắt
sang một kiếp sống khác, và chắc vừa đủ giữ con người ở lại với
những thói quen của họ.
Những suy nghĩa trong tâm luôn chứa bên trong nó sức mạnh
rất lớn, một thứ năng lượng mà lời nói hay việc làm không thể có
được.
Tất cả hạnh phúc và bất hạnh của con người hoàn toàn phụ
thuộc vào đối tượng mà chúng ta nghĩ đến chúng mỗi ngày. Khi
nghĩ về tình người sẽ đi theo tình người, giữ lấy tình người và
nhìn thấy tình người ở khắp nơi; khi nghĩ về thứ khác sẽ đi về
hướng khác, giữ lấy thứ khác, và nhìn thấy những thứ khác; rồi
càng sống càng xa nhau.
Con đường phía trước của mỗi người còn dài lắm, nên đôi khi,
chỉ cần khác nhau một chút trong suy nghĩ, ngày mai, hai người
sẽ đi xa nhau rất xa, không còn gặp lại nữa.
Ngày mai của chúng ta chính là những thói quen, được tạo ra
từ những suy nghĩ, mà chúng ta đã tích lũy trong suốt những
ngày hôm qua đã sống.
Khó thoát ra nhất là khi bị mắc kẹt trong suy nghĩ của chính
mình, nhất là khi những suy nghĩ đó đã trở thành một thói quen.
Nơi để bước vào một ngôi nhà cũng chính là nơi để bước ra,
chỉ cần đi ngược lại. Chúng ta bước vào bất an bằng suy nghĩ nào
thì cũng chính nơi đó để chúng ta bước ra, bằng cách suy nghĩ
ngược lại.
Có lẽ, do nhịp tim của mỗi người không giống nhau, nên sự
cảm nhận của mỗi người về cuộc sống trở nên khác biệt, mãi cho
đến một ngày, bị ném vào nỗi đau quá lớn, khiến trái tim phải
đau đến lịm đi, và đập lại thật chậm, từng nhịp thật nhẹ như
nhau, lúc này, mới thấy cuộc sống ngoài kia gần giống nhau.
Mong người luôn an.
Vô Thường
Núi 17.3.2021
Om Mani Padme Hum
LỜI KINH TRONG LÒNG BÀN TAY
“Như dòng sông chảy xiết, nước trôi mãi về xuôi; kiếp sống của con người, bước
đi không quay lại.”
Người không thể quay lại không phải chỉ một mình ai, mà là tất cả chúng ta, tất
cả đều không thể, vì cuộc sống không có đường để quay trở lại.
Không thể gom hết từng giọt nước cam để làm lại thành một quả cam nguyên
vẹn, không thể nối những mẩu than đã cháy đen để tìm lại một cây xanh; thời gian
đã vắt kiệt tuổi trẻ, tháng năm đã đốt cháy rụi hết ngày hôm qua, nên dù cố quay
đầu nhìn lại bao nhiêu lần, cũng không thể quay lại được ngày hôm qua. Nơi chúng
ta có thể quay lại chỉ là những kí ức đã được cất giữ trong lòng, không phải ngày
hôm qua.
Cuộc sống như dòng sông, dòng sông thời gian, dòng sông sinh diệt vô thường, ai
càng cố đứng yên một chỗ, không muốn bị dòng thời gian đẩy đi, muốn được trẻ
mãi, muốn những người thân yêu vẫn luôn còn ở đó, muốn những thứ đang có trong
tay không mất, muốn những gì mình yêu thích không tàn phai; kẻ đó nhất định phải
khổ, phải mệt rất nhiều như một người đang cố bơi ngược dòng nước lũ.
Cuộc sống như dòng sông, chảy dài kiếp phù sinh.
Chúng ta không thể trở lại ngày hôm qua, để làm thêm một chút gì đó cho những
dở dang được trọn vẹn, hay để nói một câu gì đó mà ngày xưa chưa kịp nói, nhưng
chúng ta có thể quay lại và tự ôm lấy mình bằng một cái ôm thật ấm, rồi đi tiếp.
Khi càng cố quay lại quá khứ, chúng ta càng bỏ quên hiện tại, làm cho hiện tại trở
nên mịt mù.
Dòng sông ngoài kia, dù sớm hay muộn, tất cả đều về đến đích, vì nó biết cách
tránh những chướng ngại vật; nhưng chúng ta, không phải ai cũng biết cách vượt
qua chướng ngại để đến được nơi mong muốn của mình.
Dòng sông ngoài kia, khi cùng đường, chúng không bao giờ do dự rồi dừng lại,
mà bình thản đi tiếp, bước qua nỗi sợ hãi và tuyệt vọng đang ở ngay trước mắt, rồi
biến mình thành một dòng thác kì diệu. Con người, mấy ai có thể bước qua nỗi sợ
hãi của mình như một dòng sông?
Dòng sông sẽ hòa vào đại dương, và con người, ai cũng sẽ cô độc trong bước chân
cuối cùng khi cuộc hành trình của mình kết thúc, nhưng dù có cô độc cũng phải cô
độc trong bình yên.
Cho dù cuộc sống đưa đẩy đến đâu, chúng ta hãy tìm thấy nhau bằng một nụ cười.
Mong người luôn an.
Vô Thường
Om Mani Padme Hum
DÙ THẾ SỰ CÓ THẾ NÀO THÌ CHÁNH PHÁP VẪN LUÔN MIÊN VIỄN
Người Phật tử khi đã xác quyết với Tứ bất hoại tín, ấy là tin Phật, tin Pháp,
tin Tăng, tin vào thánh giới thì dù thế sự có thế nào thì tâm vẫn luôn kiên định,
không lung lay. Xây dựng niềm tin là vấn đề căn bản của người đệ tử Phật. Niềm
tin ở đây luôn có sự suy xét của lý trí, sau khi thấu hiểu rồi mới tin theo chứ
không tin một cách mù quáng.
Nhiều người khi thấy một vài biểu hiện không chánh đáng trong Phật giáo
liền cho rằng chánh pháp hoại diệt hay gán cho một khái niệm đó là dấu hiệu
của thời kỳ mạt pháp. Rồi thối tâm, để mặc cho chúng trôi theo dòng đời, dẫn
đến khổ đau muộn phiền. Trên thực tế, chánh pháp không bao giờ mạt mà lòng
người mạt và đạo đức nhân tâm suy đồi. Biết được như vậy, ta không mất niềm
tin nơi Tam bảo, mà quyết tâm bảo vệ đạo pháp.
Thời Phật tại thế những dấu hiệu suy giảm đạo đức cũng từng xảy ra.
Nhóm lục quần Tỳ-kheo là những ví dụ điển hình. Câu chuyện tại Kosambi khi
vị sư trì luật và vị sư trì kinh tranh cải nhau dẫn đến bất hòa trong Tăng chúng,
đến nổi Đức Phật phải bỏ vào rừng ẩn cư tu tập, cho đến khi mọi người thành
tâm sám hối, mâu thuẩn chấm dứt Đức Phật mới trở về.
Có lần tôn giả Đại Ca Diếp thắc mắc vì sao trước đây khi Phật chưa chế
giới, Tăng chúng ít hữu lậu xảy ra, chúng Tỳ-kheo ham học; còn ngày nay giới
luật được chế thêm nhiều thì chúng Tỳ-kheo lại ít học tập. Đức Phật giải thích vì
chúng sanh đạo đức suy giảm nên học giới nhiều mà ít người chứng đắc thánh
trí.
Ngài nói thêm: “Này Ca-diếp, thí như lúc kiếp sắp chuyển hoại, tuy vật báu
thật chưa diệt mất, nhưng vật báu ngụy tạo tương tợ lại xuất hiện ở thế gian.
Khi vật báu ngụy tạo xuất hiện, vật báu thật sẽ mất. Cũng vậy, Ca-diếp, Chánh
pháp Như Lai lúc sắp muốn diệt, lại có tượng pháp sanh ra. Khi tượng pháp đã
xuất hiện ở thế gian rồi, Chánh Pháp sẽ bị diệt.”
Qua đó, có thể thấy, ngay thời Đức Phật còn tại thế, đã có hiện tượng các
Tỳ kheo phóng túng. Tuy nhiên, Chánh pháp Như Lai vẫn lưu xuất trong thế gian
vì đã có những đệ tử của Phật biết nghiêm tri giới luật, thực hiện đúng lời dạy
của Ngài. Nhờ luôn có những bậc chân tu đáng kính biết rõ giá trị giáo pháp của
đấng Từ phụ và thực hành đúng, Chánh pháp Như Lai đã tồn tại trên thế gian;
được truyền bá ở Châu Á rồi được lưu truyền đến tận ngày nay trên khắp thế
giới. Mặc dầu vậy, Đức Phật đã cảnh giác về sự xuất hiện của tượng pháp, là pháp
tương tự, có vẽ giống với Chánh pháp nhưng thực ra đã bị xuyên tạc, và nguy
hiểm ở chỗ mọi người cứ tưởng giáo pháp đã bị xuyên tạc như vậy là Chánh
pháp đã được Đức Phật đích thân giảng dạy.
Những câu chuyện về sự tích giới luật được ghi lại trong luật tạng cũng có
nội dung tương tợ như vậy. Theo truyền thống, các Đức Phật chỉ thành lập giới
điều khi cần thiết, khi có đầy đủ nguyên nhân và điều kiện. Nghĩa là khi có một
hiện tượng hữu lậu xảy ra làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Tăng đoàn,
Đức Phật liền chế định một giới điều tương ứng nhằm ngăn chặn các pháp hữu
lậu khác diễn ra.
Ngài dạy: “Này Tôn giả, Ta biết thời phải làm gì, nay chưa tới thời nên Ta
chưa chế giới. Khi nào trong Tăng chúng có việc vì danh lợi, vì hữu lậu xảy ra thì
Như Lai mới chế giới.”
Như vậy, các hiện tượng hữu lậu xảy ra trong Tăng đoàn thời Phật là bằng
chứng xác minh tâm tánh chúng sinh và sự cần thiết của giáo pháp để đối trị.
Nói như vậy không phải để biện hộ cho những hành động xảy ra bây giờ là điều
tất yếu. Thời nay đạo đức suy đồi, lòng người tham đắm nhiều nên chúng ta
đang xa Phật, xa rời Chánh pháp. Tuy nhiên cho dù thế sự có thế nào đi nữa thì
chánh pháp vẫn là miên viễn. Trong tám đặc tính của biển, có một đặc tính đó
là: “Nếu biển không vơi đi thì cũng không đầy thêm dù đêm ngày muôn sông
liên tục chảy về biển cả, chánh pháp cũng vậy, chánh pháp là chánh pháp, không
phải vì nhiều người đi theo mới là chánh pháp, hay không phải ít người đi theo
mà chánh pháp không phải là chánh pháp. Sự thịnh suy của nhân tình thế thái
không bao giờ đánh giá được chân lý của đạo pháp này.”
Lời khẳng định trên cho chúng ta thấy, chân lý mà Đức Phật tuyên thuyết
luôn khế lý, khế cơ và khế thời. Lời Phật dạy là bất hư vọng ngữ, bất cuống vọng
ngữ, chân thật bất hư. Lời kinh luôn đúng với chân lý, hợp với căn cơ của chúng
sanh mà thời đại nào cũng phù hợp. Những pháp như Tứ đế, Thập nhị nhân
duyên, Vô thường, Vô ngã luôn có giá trị miên viễn. Hơn hai ngàn mấy năm qua,
cho đến bây giờ những giáo pháp ấy vẫn còn nguyên giá trị.
Trong thời gian qua, nhiều ý kiến cho rằng dân số Phật tử Việt Nam và
trên thế giới suy giảm. Những thống kê chưa chính xác nhưng cũng gây ảnh
hưởng đến trong nhận thức của người con Phật. Thực tế không phải xây dựng
chùa to Phật lớn hay đông đúc Phật tử mới gọi là Phật pháp hưng thịnh. Mà ở
nơi nào, người con Phật thực tu, thực học và có sự chứng ngộ tâm linh thì nơi
đó chánh pháp hưng thịnh. Sự thịnh suy của nhân tình thế thái không đánh giá
được chân lý của đạo pháp này. Bởi chánh pháp là chánh pháp, đó là chân lý
miên viễn không giới hạn bởi không gian và thời gian. Dù ở đâu, bất cứ khi nào
thì chân lý ấy vẫn vậy. Chúng ta nghe lời khẳng định của Tôn giả A-nậu-lâu-đà
rằng:
“Bạch Thế Tôn, dù cho mặt trăng có thể trở nên nóng, mặt trời có trở nên
lạnh, nhưng Bốn Chân Lý Thánh mà Như Lai đã dạy không thể nào thay đổi
được. Khổ đế là thực trạng đau khổ của cuộc đời: sanh là khổ, già là khổ, bệnh
là khổ, chết là khổ, thù ghét mà phải gặp mặt là khổ, thương yêu mà phải chia
lìa là khổ, chấp vào năm nhóm nhân thể là khổ. Diệt đế là trạng thái hết sạch mọi
đau khổ và nguyên nhân đau khổ, là an lạc, Niết-bàn. Đạo đế là con đường dẫn
đến an lạc, là tám chánh đạo, là trung đạo, không có con đường nào khác.” (Kinh
Di Giáo)
Là người con Phật, nên nhận thức rằng mọi vật thể, hiện tượng trên thế
gian này đều chuyển biến, vô thường, có kết hợp thì phải có tan rã, chẳng có gì
để quyến luyến, thương tâm. Cuộc đời là như thế, nên cần phải nỗ lực tinh tấn
để tu tập thành tựu giải thoát. Dùng ánh sáng trí tuệ để tiêu diệt bóng tối si mê.
Đời là một sự vận hành không kiên định. Do đó, người con Phật hãy vững tâm
an định không lung lay trước sự thịnh suy của cuộc đời. “Nhậm vận thịnh suy
vô bố úy, thịnh suy như lộ thảo đầu phô.”
Thành ra, muốn chánh pháp cửu trú trên thế gian, người con Phật phải
hành trì theo lời chánh pháp.
Đức Phật dạy: “Có năm pháp, đưa đến sự an trú, bền vững, không biến
mất của diệu pháp. Thế nào là năm? Ở đây, này Kassapa, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheoni,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống kính trọng, tùy thuận bậc Đạo Sư (đức Phật), sống
kính trọng, tùy thuận Chánh pháp, sống kính trọng, tùy thuận chúng Tăng, sống
kính trọng, tùy thuận học giới, sống kính trọng tùy thuận Thiền định. Chính năm
pháp này, này Kassapa, đưa đến sự an trú, bền vững, không biến mất của diệu
pháp.”
Tóm lại, khi nào còn có người tôn trọng, kính trọng Đức Phật, kính trọng
Chánh pháp và kính trọng chúng Tăng, tôn kính các học giới thì khi đó chánh
pháp vẫn còn tồn tại. Đây là thước đo chính xác nhất để nhận biết chánh pháp
tồn tại hay không tồn tại trên thế gian này. Từ nay trở đi, đệ tử của Như Lai hãy
noi theo truyền thống chánh pháp mà thực hành. Đó là cách làm cho pháp thân
Như Lai thường còn, chánh pháp thường còn và mãi mãi bất diệt ở thế gian.
Thích Trung Định