Góp Nhặt Những Điều Lành

Sư cô Diệu Tịnh

Trong thời gian gần đây, chúng tôi có cơ hội phụ giúp công việc xây dựng tại chùa, và chúng tôi được học cách xử dụng đến các loại dụng cụ như búa, dùi, và đục, v.v… Chúng tôi có kho chứa các đồ nghề, và nó nằm không xa khu vực xây dựng, nhưng chúng tôi phải mất rất nhiều thời gian và năng lượng để chạy tới kho lấy dụng cụ mỗi khi cần đến. Cho nên chúng tôi quyết định gom những dụng cụ cần thiết, để vào trong thùng đồ nghề, và đem tới chỗ xây dựng để không cần phải chạy đi chạy lại nhiều chuyến nữa. Chỉ cần làm như vậy, nó đã giúp chúng tôi tiết kiệm được nhiều công sức và thời gian.

Sau công việc đó đã cho chúng tôi một bài học trên con đường tu. Đó là tự hỏi lòng mình rằng: “Ta đã có được những gì trong hộp dụng cụ của mình?” Chúng ta lắm lúc chưa trang bị đầy đủ cho mình những dụng cụ cần thiết. Dụng cụ là ví dụ cho công năng tu hành của mình. Ta đã học được công năng nào từ sự tu tập, trong thời gian đến chùa, hay trong thời gian tham dự các khóa tu? Đây là những câu hỏi ta nên thỉnh thoảng hỏi chính mình. Tại thế gian, chúng ta không được học những phương pháp để có thể giúp chúng ta chuẩn bị cho đời sống. Thế gian dạy chúng ta tham, sân, si; làm tiền bằng cách nào, làm sao để vượt trội người khác, và làm sao để tránh né trách nhiệm. Nhưng tại tu viện, chúng ta sẽ được học thế nào là từ bi, tha thứ, nhẫn nhục, tiết chế, và tinh cần.

Trong kinh Đức Phật thường dạy, chân hạnh phúc không đến từ những điều như tài sản, thế lực, và địa vị. Chân hạnh phúc đến từ bên trong, từ sự tu dưỡng những tánh đức lành thiện, từ sự phát triển những năng lượng tích cực, nhờ đó mà có thể dự bị cho chúng ta những điều cần thiết trong những giây phút khó khăn nhất. Hằng ngày chúng ta bị dao động bởi nỗi đau, khổ nhọc, và mất mát; cho đến những năm tháng cuối của cuộc đời ta cũng chỉ biết đối mặt với già, bệnh, và chết. Nhưng thế gian không đề cao những vấn đề này. Thế gian đẩy những vấn đề này qua một bên và giả vờ như cuộc đời này là toàn những tuyệt vời và hạnh phúc. Nhưng khi đến tu viện, chúng ta tập ý thức rằng những chuyện không may cũng vẫn xảy ra trong cuộc đời, và chúng ta phải tìm cách chuẩn bị cho mình, bằng không thì khi gặp phải những chuyện khó khan chỉ làm cho sự đau khổ càng tăng thêm mà thôi.

Một phương pháp quan trọng mà chúng ta được học nơi tu viện là sự tập trung. Nghĩa là đem sự nhận biết về một điểm, và duy trì sự nhận biết đó. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật đã diễn tả về tâm như sau, “Dao động, chập chờn, khó giữ gìn, khó đề phòng.” Vì tâm ta thường rong ruổi đi nơi khác, ta phải duy trì sự nhận biết và giữ vững sự nhận biết này.

Hình ảnh diễn tả sự vững chãi của tâm được ví như một trụ đá có nền móng chôn thật sâu dưới lòng đất. Dù những cơn gió mạnh cũng không thể xô ngã được. Cũng vậy, khi tâm được vững rồi thì sẽ không bị chi phối bởi những ý niệm hiện hành trong tâm, mà sẽ được gom vào một điểm. Đây chính là lúc ta đến gần với bıǹ h an. Với một tâm quen rong ruổi thì ta không thể nhận được chân hạnh phúc, tại vì ta luôn bị lôi cuốn bởi những ý niệm vui buồn của cuộc sống. Nhưng khi tâm được gom về một điểm trong dây phút hiện tại, ta có thể sống một cách trọn vẹn hơn.

Một phương pháp khác là tách ly. Nghĩa là tách rời những ý niệm ra khỏi tâm ta. Ta thường đồng hoá tâm với các ý niệm làm một, và do đó cũng đồng hoá những ý niệm đang hiện khởi trong tâm chính là ta. Nhưng tâm và ý niệm là hai điều khác nhau. Khi được phân ra, tâm ta trờ thành cái quan sát, và ý niệm là cái bị quan sát. Ta sẽ nhìn thấy được những tánh chất không đồng của ý niệm.

Trong kinh văn Đức Phật đã truyền dạy cho các đệ tử Tỷ kheo về phương pháp mà Ngài đã thực tập trước khi thành đạo, và chính phương pháp này đã giúp Ngài đạt được chánh kiến. Ngài chỉ thật đơn giản phân các ý niệm ra thành hai đại loại: Một loại là ý niệm thực hành bất thiện và dẫn đến kết quả bất thiện; một loại khác là thực hành thiện và dẫn đến kết quả thiện. Bằng cách này, Ngài đã loại trừ được những ý niệm bất thiện và chỉ duy trì những gì lành thiện.

Điều mà Đức Phật khuyên nơi đây là ta phải biết lựa chọn. Ta phải lọc đi những ý niệm không lành, và chỉ giữ lại những gì có thể dẫn đến những tánh đức tuyệt vời và cao cả hơn hết. Hãy thử tưởng tượng tâm ta giống như ngôi nhà của mình đang ở. Ta sẽ hoan nghênh những người ta tin cậy, và không cho vào những ai ta không tin cậy. Cho nên chúng ta cần học cách kềm chế và kiểm soát tâm của mình, giữ cho tâm này mãi là ngôi nhà thật an toàn cho ta ở.

Đây là hai phương pháp trong nhiều phương pháp khác mà chúng ta có thể học tập nơi tu viện. Môi trường nơi đây rất lý tưởng để mang lại những kết quả tốt trên đường tu. Cho nên ta hãy đem theo những gì ta đã học được để thực hành khi trở về lại đời sống nơi thế gian, nơi mà những phương pháp tu hành không chỉ là hữu ích mà còn là điều rất cần thiết. Tại tu viện, ta hãy để tâm học và thực hành theo lời Phật dạy, góp nhặt những điều lành thiện, để khi trở về đời sống với gia định, ta sẽ biết cách sáng tạo những điều thật tươi mát và bình an trong cuộc sống. Học Pháp của Phật không phải là việc dễ làm, nhưng trên đường dài Phật Pháp sẽ dẫn ta đến được bờ giải thoát và chân hạnh phúc. Do đó, mỗi khi sự thực tập trở nên khó khăn, bản thân chúng tôi liền vực dậy sự can đảm và đọc lớn lời của Phật dạy:

“Này các Tỳ kheo, hãy xa lìa điều ác. Này các Tỳ kheo, Một người có thể xa lìa điều ác. Nếu việc xa lìa điều ác không có thể làm được, Ta sẽ không bảo các ông làm như thế. Nhưng điều này có thể làm được, cho nên ta nói, ‘Xa lìa điều ác.’ Nếu việc xa lìa điều ác sẽ đem lại tổn hại và đau khổ, Ta sẽ không bảo các ông xa lìa nó. Nhưng vì xa lìa điều ác đem lại an lạc và hạnh phúc, nên ta nói ‘Xa lìa điều ác.’”

Advertisement

Tiến Bộ Trên Đường Tu

Sư cô Diệu Tịnh

Trên đường tu hành ta cần có sự tiến bộ, vì nếu không có tiến bộ thì ta chỉ uổng phí công sứcmà thôi. Cũng giống như cậu học sinh cắp sách đến trường, nếu như việc học của anh ta khôngcó tiến bộ thì anh ta đã uổng công rồi.

Làm sao để biết được ta đang tiến bộ? Là khi ta đem được tâm trở về an trú trong hiệntại. Mỗi khi tâm chạy theo hoàn cảnh, ta có thể đem tâm trở về kịp thời trước khi tâm tiếp tụcđưa đẩy ta làm việc không lành.

Để có sự tiến bộ này, ta cần phải áp dụng 3 yếu tố: tỉnh thức, chuyên cần, và nhẫn nại. Dầu tađang hành trì hay thực tập pháp môn nào, 3 yếu tố này cũng đều là năng lực tích cực đưa đếnkết quả tốt.

Yếu tố thứ nhất là sự tỉnh thức. Đây có nghĩa là sự nhạy bén và nhận dạng về những gì đangdiễn biến nơi tâm. Thông thường tâm ta hay bị trôi dạt về quá khứ, hoặc lo toan tính toán cho tương lai, mà không chịu sống an trú trong hiện tại.

Chẳng hạn như ta vào thiền đường với mục đich là ngồi thiền, nhưng một khi ngồi ổn địnhmột chút thì tâm liền nghĩ đến công việc phải làm cho ngày mai, va tuy ta đang ngồi nhưng trongđầu đang xắp xếp công việc.

Thế nên mỗi khi phát hiện tâm không còn an trú trong hiện tại, hãy nhận cho rõ tâm ta đang làm gì, và đang trong trạng thái nào. Sự nhận dạng của ta càng nhạy bén thì ta càng thấy sâu hơn và rõ hơn về mình. Khi nhận dạng được tâm thức thì ta không tiếp tục bị tâm thức khống chế, mà chính là ta đang làm chủ chính mình. Ta là người đang quán sát tâm hành, và ta rất tự tại và thoải mái.

Yếu tố thứ nhì là sự chuyên cần. Đây có nghĩa là siêng năng và đều đặn. Đối với người đang thực tập thì tâm cần được kềm chế. Nghĩa là tâm luôn được canh gác, để mỗi lần nó chạy mất thì ta lại đem nó về. Cứ mỗi lần tâm lạc mất ta lại đem tâm về. Tâm lạc một trăm lần thì một trăm lần ta đem tâm về. Tâm lạc một ngàn lần thì một ngàn lần ta đem tâm về. Đây gọi la canh gác va điều phục tâm.

Đức Phật dùng hình ảnh con khỉ và con ngựa để diễn tả cái tâm khi chưa được điều phục. Ta có thể hình dung sự hỗn loạn mà hai động vật này có thể gây ra, dùng hình ảnh đó để liên tưởng đến sự hỗn loạn đang xảy ra trong tâm khi thiếu sự điều phục. Nhưng với sự thực tập khéo léo và chuyên cần thì tâm sẽ dần dần an bình, và sẽ được nhẹ nhàng hơn.

Yếu tố thứ ba là sự nhẫn nại. Nhiều lúc ta nóng lòng mong đạt được kết quả, nhưng kết quả không phải muốn là được. Nhẫn nại nghĩa là ta có thể chấp nhận chính mình, trong khi ta biết rằng những tánh xấu có thể được chuyển hoá. Nhẫn nại cũng có nghĩa là thương chính tự thân mình hơn và cho phép sự có mặt của những thất bại trong đường tu.

Những sở đoản là những tập khí không lành mà ta đã học từ lâu, bây giờ muốn thay đổi thì đòi hỏi ta cần nhẫn nại từng chút một. Vì vậy ta nên nói với lòng rằng: “Hãy cho ta thêm chút thời gian và hãy tiếp tục cố gắng thêm chút nữa”.

Tóm lại, để có sự tiến bộ trên đường tu hành ta cần thực tập 3 yễu tố: tỉnh thức, chuyên cần, và nhẫn nại. Với 3 yếu tố nầy, ta sẽ có được sự tiến triển trên lãnh vực thuần phục thân và tâm. Được thế thì ta mới dễ dàng đón nhận lời dạy của Đức Phật.

Y Lời Dạy Đức Thế Tôn (Tỳ Kheo Thích Phước Hội)

Tôn giả Phú Lâu Na nói, “Đối với những người vì gặp những việc bất như ý, hay thối chí trong công việc hoằng truyền chánh pháp, chán nản chê trách cuộc đời ngũ trược, chúng sanh ngỗ nghịch khó độ, khó dạy” v.v…

Nếu Phật pháp dễ truyền, chúng sanh dễ dộ thì chúng ta không cần theo đuổi công tác ấy.  Chính vì cuộc đời ngũ trược và ác thế, việc hoằng truyền chánh pháp có khó khăn cực nhọc, vì muốn báo đáp ân Phật, chúng ta mới hăng hái theo đuổi sự nghiệp của người trưởng tử Như Lai.  Chúng ta xuất gia làm đệ tử Phật không nên xem Tăng đoàn là nơi tỵ nạn, hay một viện dưỡng lão.  Đã là người Tỳ-kheo, chỉ cần lo bổn phận người xuất gia như:

  • Chỗ nào chúng sanh cần con đến
  • Chỗ nào Phật pháp cần con đi
  • Chẳng nại gian lao
  • Chẳng nài khó nhọc.

Còn chuyện thế gian dẹp qua một bên.  Phật pháp chưa hoằng truyền, thế gian chưa độ mà cho rằng không dính líu gì đến mình thì thật là đi ngược lại lời Phật dạy.  Lòng từ bi nguyện cứu độ của Ngài nhất định không hoan hỷ với tác phong tiêu cực của chúng ta.

Chính vì xuất gia là cắt ái từ thân, chuyên tâm tinh cần cho lý tưởng giác ngộ vô thượng, hiến trọn đời mình cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, sống cuộc đời tăng sĩ xuất gia cầu đạo tu hành đền đáp bốn ân trọng.

A Di Đà Phật!

Phiền Não Tức Bồ Đề

Câu này bàn bạc trong kinh đại thừa:

  • Phiền não có nghĩa là si mê, là buồn bực, là đau khổ.
  • Bồ Đề có nghĩa là giác ngộ, là yên tịnh, là an vui.

Hai thứ này bản chất trái ngược nhau.  Tại sao vậy?  Bởi phiền não bản chất không cố định.  Khi ta biết chuyển, biết xả lìa liền thành Bồ-đề.  Do vậy, cái động không ngoài cái tịnh, cái sáng không ngoài cái tối, hết tối tức là sáng.  Chúng ta cứ quen theo chạy tìm cái giác ở ngoài cái mê.  Tâm an vui ngoài cái đau khổ, sự thực không phải thế.  Hết mê tức là giác, hết khổ tức là vui.  Có phải vậy không?  Biết dừng phiền não tức Bồ-đề, không tìm kiếm đâu xa.  Bồ-đề đã có sẵn, chúng ta ôm phiền não chạy kiếm Bồ-đề làm sao có được, chỉ khi nào phiền não lắng xuống lúc đó Bồ-đề hiện ra, khỏi phải tìm đâu cả.

Cũng vậy, nếu tất cả chúng sanh không sẵn có tánh giác, thì dù có tu đến đâu, cũng không thể giác được.  Thí dụ: nước mưa từ trên không rớt xuống là trong sạch, khi tiếp xúc với mặt đất sẽ bị ô nhiễm không sạch, tức là nước đục, nhưng trong cái đục nó đã sẵn có cái trong.  Có 1 vị thiền sư tên Tư Nghiệp, trước khi đi tu ngài làm nghề đồ tể mổ heo bán thịt.  Một hôm mổ heo, ông nghe tiếng kêu đau khổ của nó, bỗng dưng ông thức tỉnh, bỏ nghề, xuất gia.  Ông làm bài kệ:

“Tạc nhật dạ xoa tâm,

Kim triêu Bồ-tát diện

Bồ-tát dữ dạ-xoa

Bát cánh nhất điêu tuyến”

Tạm dịch:

“Hôm qua tâm dạ xoa

Ngày nay mặt Bồ-tát

Bồ-tát cùng dạ-xoa

Không cách một đường tơ”

Nhân gây phiền não không ngoài các yếu tố sau:

Ngũ độn sử:                            Ngũ lợi sử:

  • Tham dục                              Thân kiến
  • Sân khuể                                Biên kiến
  • Si vô minh                             Kiến thủ
  • Mạn sử                                   Giới thủ
  • Nghi sử                                  Tà kiến
  1. Ngũ độn sử do ái dục mà có
  2. Ngũ lợi sử do nhận thức sai lầm mà có

Cả hai đều gây nên phiền não.  Cũng thế, khi cái biết dấy khởi lên phân biệt cảnh duyên thì nó hiện tượng giả dối, tạm gọi là vọng tâm.  Cái biết này giống như hiện tượng của sóng.  Khi cái biết này lặng xuống thì cái biết không phân biệt, nói gọn là tánh không toàn thể hiện bày.  Như sóng tan thì nước hiện, mây tan thì trăng hiện.  Vì thế trong kinh thường nói, “phiền não tức Bồ-đề”, hay “sanh tử tức Niết-bàn”, chính là ý này.

Niệm Phật Di Đà mong giải thoát

Phổ Hiền hạnh nguyện trợ duyên nương

Xin khuyên Phật-tử hàng tu tịnh

Bước đường gần nhất đến Tây Phương.

Tỳ Kheo Thích Phước Hội

Sưu tập